DẢI ĐẤT HẸP – CHẶNG ĐẦU ĐÁNH MỸ 3

*
*      *

Những yêu cầu không phức tạp lắm của Xương và tôi đã làm cho đồng chí chính trị viên yên tâm. Sau khi tới một lúc, chúng tôi đã hiểu là phân đội của anh đang bận, rất bận. Buổi chiều, lại thêm ba cán bộ của phân khu, của tỉnh kéo xuống. Căn nhà của phân đội bộ bỗng chốc đông đặc người, mỗi người mỗi việc ồn ào. Lực hết sức tạo điều kiện làm việc cho chúng tôi. Chúng tôi thấy rõ anh đã phải cân nhắc tính toán. Những đồng chí tới gặp chúng tôi đều có vẻ vừa để lại đơn vị một công việc đang làm dở dang. Riêng Lực, anh vẫn tranh thủ từng lúc nói chuyện với chúng tôi, vì anh cũng là một người chúng tôi yêu cầu được nói chuyện nhiều.

Mưa lại rả rích. Buổi trưa, sương mù vẫn vây kín xung quanh nhà. Sau bữa cơm, hai đồng chí phái viên trên phòng tham mưu phân khu xuống trùm chăn ngủ trưa. Lực nói chuyện với anh nuôi dưới bếp về sau, thấy chúng tôi đang ngồi quanh đống than, cũng đến ngồi bên. Anh ghé miệng thổi hồng mấy hòn than, hơ hai bàn tay lên trên, rồi nói:
– Các anh ít ngủ trưa, hè! Mưa hoài, trời ni, bọn tui mần ăn vất vả.

Phân đội này được coi là một đơn vị kỹ thuật. Bao giờ họ cũng chiến đấu với một kẻ địch đông hơn nhiều lần, có khi tới mười lần. Họ tự giải quyết lấy mọi việc để tiêu diệt kẻ thù. Họ chiến đấu mặt giáp mặt với chúng. Để giành lấy chiến thắng và để bảo vệ mình, họ nhảy vào sào huyệt của địch, cưỡi lên lưng chúng mà đánh. Họ không đánh thì thôi, hễ đánh là giành thắng lợi. Họ đánh theo một cách đánh hoàn toàn của chúng ta, một cách đánh chưa hề được nói tới trong bất cứ sách vở quân sự nào. Cách đánh dùng lực lượng rất nhỏ của mình để đánh thắng lực lượng lớn mạnh của kẻ địch. Cách đánh giành lấy thắng lợi to lớn, giòn giã với tốn kém nhỏ nhất về người và của. Đó là một cách đánh đầy tinh thần dũng cảm và rất thông minh. Trong trận An Lỗ, không một cán bộ, chiến sĩ nào của đơn vị bị chết vì tay quân địch. Một đặc điểm của cách đánh này là công tác chuẩn bị chiến đấu phải làm thật tỉ mỉ.

Chúng tôi biết đồng chí chính trị viên có ý dành cho mình ít phút để nói chuyện.

– Quê đồng chí Lực ở đâu nhỉ?

– Tui chính là người Thừa Thiên.

– Anh có hay về thăm nhà không?

– Từ ngày đi, chưa về qua nhà lần mô.

– Anh được mấy cháu rồi?

– Chưa có chi hết.

Chúng tôi hiểu ý Lực nói là chưa có vợ. Anh đưa mắt nhìn cái sân trống trước mặt, chỗ ngủ của ban chỉ huy phân đội, nói tiếp:

– Cả ba đứa tui đều chưa có chi.

Bộ mặt tai tái có chiếc cằm vuông chắc chắn của anh, bỗng nở một nụ cười dễ thương:

– Các anh coi tui già rứa nhưng tui vẫn chưa nghĩ ra khi lấy vợ mình sẽ mần cái người chồng ra răng, về cái món ni, bọn tui thua khối anh em. Các chiến sĩ nhiều cậu đã có vợ, có cậu có mấy con rồi.

– Anh Lực chưa già đâu. – Tôi nói xong, cảm thấy câu an ủi của mình chẳng ra làm sao.

Lực ngó ra cửa, nhìn theo một con sóc vàng đang chạy trên một cành cây bị mảnh bom chém gãy. Đến chỗ cây cụt, con vật quay đầu chạy trở lại, vẫy cái đuôi dài như bông lau một cách thật yểu điệu. Giọng nói của anh trở nên thủ thỉ, tâm sự:

– Mấy lần có anh em ở đây về qua nhà tui, mạ tui chỉ nhắn lên có một câu: “Nhiều tuổi rồi đó, đi đến mô thì đi, nhưng phải nhớ kiếm lấy một o”.

Lực ngồi im lặng nhìn những hòn than anh vừa thổi đỏ trong, giờ đã bọc một lần tàn trắng như bột. Bỗng anh lại nói, giọng lanh lanh và linh hoạt hẳn lên:

– Bọn tui cũng không lo già mô! Bữa tê xuống đồng bằng, các o đã nói với anh em: “Còn giặc đó các anh cứ đi đi. Răng chừ cách mạng miền Nam thành công, về xây dựng gia đình, tính tuổi, bọn em sẽ trừ cho một phần ba”.

Đồng chí phái viên người to lớn nằm duỗi chân hết chiều dài cái sạp, bỗng lên tiếng trong chăn:

– Đồng chí Lực này, già mà cứ muốn lấy vợ trẻ rứa có phong kiến không nhỉ?

Anh nói tiếng miền Bắc, cố ý cong lưỡi nhận mạnh vào tiếng “rứa”.

Nằm bên anh, đồng chí phái viên có tuổi cũng nói luôn:

– Phong kiến là tảo hôn, cưỡng hôn, là lấy nhiều vợ. Già trẻ ưng nhau là lấy nhau thì phong kiến mô! Phải không đồng chí Lực?

Thì ra cả hai người đắp chăn nằm đó vẫn chưa ngủ.

Đồng chí liên lạc của phân đội trùm trên đầu một tấm ni-lông màu lá cây đang từ dưới dốc đi lên. Lực cười xòa, rồi nói với chúng tôi:

– Anh em ưng nghe một tối thời sự đó các anh ạ. Các anh chuẩn bị cho!

5.

Chiều hôm đó, nhân lúc trời còn sáng, chúng tôi ngồi bên cửa sổ, tranh thủ ghi chép chút ít vào cuốn sổ tay. Một người cao cao, mặc bộ đồ lót đen, ở ngoài đi vào. Anh liếc nhìn về phía chúng tôi với đôi mắt linh lợi, hơi gật đầu chào, rồi đi thẳng đến cái sạp bỏ trống. Anh cởi ni-lông buộc ở cổ ném lên sợi dây rừng căng dọc theo nhà, và treo chiếc mũ giải phóng ướt sũng nước vào một cái mấu cột cạnh cửa ra vào. Da dẻ anh tái tím lại vì mưa rét. Đồng chí quản lý cũng đang ngồi tính toán gần đó, nói nhỏ với chúng tôi:

– Anh Hồng, phân đội trưởng.

Hồng mở cái ba-lô ở đầu giường, lấy một bộ quần áo, rồi đi xuống hầm. Vài phút sau, anh quay lên với bộ quân phục ka-ki và cái áo len cổ lọ màu cà-phê sữa. Như một người khó tính, anh không nói câu nào, nằm xuống sạp, gối đầu lên cái sà-cột, trùm cái chăn mỏng bằng vải dù xanh kín người, ngủ ngay.

Giờ cơm chiều, Hồng không dậy ăn. Đồng chí y tá xách từ nhà ăn lên cho Hồng một hăng-gô cơm và một ca canh rau me. Anh lay đồng chí phân đội trưởng. Mấy lần Hồng mở mắt ra và rồi lại nhắm mắt ngủ tiếp.

Lực đi ăn cơm về, nhìn Hồng vẫn nằm ngủ, hỏi đồng chí y tá với vẻ lo lắng:

– Cậu coi đầu anh Hồng có nóng không?

– Hâm hấp đó.

Trời tối đã lâu, chúng tôi đang nằm nghe bản tin, thấy Hồng cựa mình. Nhìn sang, anh vừa tung chăn ngồi dậy, đôi mắt đỏ ngó quanh. Lực nằm cạnh tôi, cũng nhỏm dậy, hỏi:

– Sốt à?

– Không, mỏi sơ thôi.

Hồng trả lời rồi rót nước trong bi-đông ra súc miệng. Anh vươn dài người nhấc hăng-gô cơm và ca canh đặt trên bàn. Lực ngăn:

– Rồi hãy ăn. Đặt vào lửa một chập cho nóng đã.

Lực định lại giúp Hồng làm việc đó, nhưng Hồng nói:

– Thôi, ăn luôn.

Anh xới cơm vào luôn chiếc ca đựng canh, ăn rất nhanh. Cơm canh chắc là đều lạnh lắm. Nhìn Hồng ăn, chúng tôi ái ngại, cảm thấy như anh đang nuốt những miếng nước đá. Hồng ăn không hết suất cơm, lại nằm xuống ngủ luôn.

Sáng hôm sau, Hồng cầm bát cùng xuống nhà ăn với chúng tôi. Sau giấc ngủ bù, người anh tỉnh táo, tươi hẳn lên. Hồng trắng trẻo, có đôi gò má cao. Anh cười để lộ một chiếc răng vàng, hỏi chúng tôi:

– Các anh tới được mấy bữa rồi?

– Chúng tôi đến đã được ba hôm.

Hồng quay sang nói với Lực:

– Ta xem có kiếm được cái chi tối ni liên hoan với các anh cho vui. Mình mang về được một gói trà.

Sau bữa cơm, chúng tôi ngồi quây quần trên sạp chia nhau một lá thuốc của đồng chí phái viên có tuổi vừa bỏ ra. Hồng từ sạp bên kia nhảy sang. Xương mỉm cười, nhích sang bên nhường cho anh một chỗ. Nhưng Hồng không hút thuốc. Từ chiều qua, chúng tôi chưa nhìn thấy anh hút thuốc. Hồng lấy trong túi áo ngực ra một tờ pơ-luya gấp nhỏ. Anh mở tờ giấy đặt trên bạt, vuốt mấy cái cho thẳng, rồi ngồi im.

Mọi người ngồi quanh đều chăm chú nhìn vào mảnh giấy mỏng quên điếu thuốc quấn dở trên tay. Đó là một bản sơ đồ. Hồng vừa đi điều tra vị trí địch về.

Chờ mọi người xem kỹ, Hồng vẫn im lặng, đặt cạnh bàn tay có những ngón xương xương xuống chung quanh tờ giấy như để trình bày ý định của anh về các mũi đột phá. Đồng chí phái viên người to lớn xoay qua xoay lại tờ giấy, xem xét, rồi gật gù. Họ không hỏi gì vì hình như đã đọc hết ý nghĩ của nhau. Rồi Hồng nói:

– Ăn được đó!

Anh quay nhìn Xương và tôi, mỉm cười:

– Kế hoạch trả thù cho đồng bào Hà Nội của bày tui.

Cách đây ít hôm, tôi ở đồng bằng trở về phân khu gặp Xương để cùng đi xuống các đơn vị bộ đội. Tối hôm đó, chúng tôi ngồi trong căn hầm ấm cúng có lò sưởi chống ẩm và chống muỗi của cơ quan tuyên huấn, dựa lưng vào vách hầm lót bằng những cọng lá đùng đình xanh bóng và mát rượi, quây quanh ấm trà và gói kẹo nu-ga. Những phút trở về gặp lại nhau sau một chuyến công tác dù dài, dù ngắn ở vùng đất lửa này, bao giờ cũng vui. Câu chuyện râm ran chung quanh đề tài kế hoạch “tư tác” của đồng chí trưởng ban tuyên huấn. Như mọi lần, anh chỉ im lặng mỉm cười làm giãn bộ ria xanh xanh dễ thương trước những câu hỏi tò mò, những câu bắt nộn của chúng tôi. Riêng cái chuyện vợ con này, bao giờ anh cũng kín như bưng. Anh đẩy ngón tay cái vào bánh xe răng cưa của chiếc đài bán dẫn để tránh một câu trả lời.

Chính ngay lúc ấy, chúng tôi nghe tin máy bay Mỹ ném bom xuống thủ đô Hà Nội. Những câu chuyện vui tắt hẳn. Chúng tôi mở đài suốt tối hôm đó. Mỗi người đều cố tìm qua những lời tố cáo, những gương chiến đấu, xem bao nhiêu trái bom đã rơi trên những đường phố nào của Hà Nội. Đống Đa, nơi Quang Trung lập chiến công lớn ngày xưa bị chúng ném bom rồi. Khu sứ quán nước ngoài ở đâu? Có phải gần Ba Đình, gần Chủ tịch phủ không? Khu tập thể ở bờ sông cũng trúng bom. Cầu Long Biên có việc gì không?… Ruột gan chúng tôi bỏng rát.

Với những trận bom, đại bác ở đây, tình cảm của mọi người hầu như đã chai đi, cũng như người đi biển đã quen với sóng gió. Trong những lúc đó, nhiều khi chúng tôi chẳng còn nghĩ đến căm hờn, chẳng còn nghĩ cả đến thằng địch. Chúng tôi chỉ chờ cho phút nguy hiểm qua đi. Chúng tôi dè sẻn những tình cảm mãnh liệt như người đi đường dài cần phải giữ sức. Phải để dành những tình cảm đó cho những lúc cần thiết như người leo núi dành sức cho những ngọn đèo cao. Lần này, những trái bom rơi ở phương trời xa đó giống như những lời lẽ xúc phạm nhất đến tình cảm thiêng liêng của mỗi người. Nhiều anh em chúng tôi chưa hề nhìn thấy một mái nhà, một gốc cây của Hà Nội. Nhưng từ lâu, Hà Nội đã gắn liền với đời sống, với niềm hy vọng của mỗi người. Hàng ngày, chúng tôi nghe tiếng nói của Hà Nội, tiếng nói của Bác Hồ từ thủ đô của đất nước vọng về. Tiếng nói thiêng liêng đó đã đưa chúng tôi lên đường chiến đấu, tiếp sức cho chúng tôi từng phút từng giờ, và đang đưa chúng tôi đến gần thắng lợi. Chúng nó đã đụng đến trái tim của Tổ quốc, đụng đến trái tim của chúng tôi.

Vào giây phút đó, mỗi người đều có một ý nghĩ giống nhau: “Phải đánh trả chúng ở đây, phải trả thù cho thủ đô Hà Nội.” Ý nghĩ đó đến với những người lãnh đạo cuộc chiến đấu. Ý nghĩ đó đến với từng cán bộ, từng chiến sĩ trong phân đội nhỏ này, và hôm nay, nó đã hiện hình trên mảnh giấy mỏng ở trước mặt chúng tôi. La Vang, Từ Hạ, Quảng Trị hay Phú Bài đây?

6.

Nếu không phải là những đêm đi chiến đấu, đi lấy gạo, buổi tối ở miền Nam thường là giờ nghỉ ngơi hoặc là giờ làm việc riêng của mỗi người. Đèn lửa khó, anh em lại ở phân tán nên các đơn vị ít khi tập trung vào buổi tối. Nhưng ở mỗi căn nhà của các chiến sĩ giải phóng, giờ này là lúc mọi người có mặt đông đủ nhất, về mùa đông, dù khó khăn đến mấy, mỗi nhà cũng phải kiếm cho được một đống lửa.

Từ buổi chiều, đồng chí y tá và đồng chí liên lạc của phân đội đã vác về hai cái gộc cây mục thật là to. Cả hai gộc cây đều vắt ra nước, nhưng không sao, nó sẽ tự sấy khô và sẽ biến tất cả thành những miếng than hồng. Lúc này, hai gộc củi lớn đó đang chụm đầu vào nhau phun khói đầy nhà. Khói ở đây không làm người ta khó chịu. Ngồi trong một căn lều ngột ngạt hơi khói còn sướng hơn nhiều so với căn lều chỉ có bóng đêm và hơi ẩm lạnh. Người ta cảm thấy khói còn có cả một hương vị đậm đà giống như hương vị của thuốc lá.

Chúng tôi xúm đến hai bên đầu sạp, ghé mặt hoặc thả chân xuống gần đống lửa. Xương lót một chiếc dép, ngồi cưỡi ngay lên cái cây đang phun khói, hong chiếc áo giặt đã phơi suốt mấy ngày nay không khô.

Phân đội trưởng Hồng đứng ở mép sạp, dong một sợi dây từ trên mái nhà xuống để treo hăng-gô nước trên ngọn lửa. Nhìn thấy đồng chí y tá vén cái bạt che ở cửa ló đầu vào, Hồng dừng tay hỏi ngay:

– Răng mi? Thắng lợi không?

Đồng chí y tá bưng một cái nồi nhôm bước vào:

– “Ác liệt” hung! Tôi phải nói mãi là có khách ở miền ra, ông nớ mới chịu đưa.

– Mấy bánh đường?

– Bốn bánh.

– Còn đậu phụng?

– Tám lon.

– Kể ra thì đường hơi ít đó!

Đồng chí phái viên có tuổi ngồi khuất trong bóng tối, nói:

– Cứ mần đi!

Phân đội trưởng Hồng nhoẻn miệng cười. Cái răng nanh bịt vàng của anh lấp lánh ánh lửa. Anh nói như ra lệnh:

– Bắc nồi! Bữa ni tau nấu cho.

Tối nay, anh em ở phân đội bộ yêu cầu chúng tôi kể chuyện thời sự. Các cán bộ trung đội cũng kéo lên nghe. Chúng tôi hỏi anh em muốn nghe chuyện gì. Trung đội trưởng trung đội hai đang rì rầm với đồng chí quản lý, quay lại, đằng hắng một cái rồi nói bằng những lời lẽ gãy gọn, mình muốn biết về tình hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong khi máy bay địch đánh phá ngày một mạnh, mùa màng ngoài đó ra sao, đường đi lối lại có thông suốt không? Ngồi bên anh, đồng chí anh nuôi cuốn quanh cổ chiếc khăn bông to xù, đôi lông mày lúc nào cũng giương lên đến nhăn cả trán như có điều gì ngạc nhiên, yêu cầu chúng tôi nói chuyện tình hình thế giới, tình hình Liên Xô, Trung Quốc. Đồng chí liên lạc có bộ mặt sáng sủa, giọng nói chín chắn như một cán bộ chính trị hỏi Giôn-xơn đưa thêm nhiều lính sang Việt Nam thì thái độ của nhân dân Mỹ ra sao? Đảng cộng sản bên đó hoạt động như thế nào? Anh chiến sĩ thông tin ngồi cạnh máy điện thoại ở tận cuối sàn, nói to:

– Tôi ưng nghe chuyện Hà Nội đó. Chuyện chi về Hà Nội cũng được. Thủ đô có còn đá bóng, văn công, xi-nê nữa không các thủ trưởng?

– Các đồng chí nói là ở miền ra, hỏi chi những chuyện nớ. – Đồng chí quản lý nói.

– Các đồng chí ở cơ quan trên, mần chi mà không biết chuyện Hà Nội. Các đội bóng ngoài nớ bữa ni đá ra răng? Răng chừ hòa bình, tôi ưng vô Huế coi đội Thể công mình chơi một trận.

– Tôi cũng ưng nghe chuyện Hà Nội. Hai đồng chí có biết chi về chuyện phi công ta, nói cho nghe. Cưỡi tàu bay lên trời đánh nhau với giặc Mỹ rứa mới thiệt sướng. – Một người nào đó ngồi trong bóng tối, ủng hộ ý kiến của đồng chí thông tin.

Chúng tôi phải thú thực là những hiểu biết của chúng tôi rất hạn chế và sẽ không thỏa mãn được các yêu cầu đã đề ra. Chúng tôi cố vắt trí nhớ, gạn lấy những điều có thể giúp ích cho những người ngồi đây mà chúng tôi đã hiểu biết ít nhiều.

Người nhỏ nhắn, khuôn mặt trái xoan, đôi mắt xếch, có cái miệng cười thật tươi, đầu quấn băng trắng là Văn Thế Hùng đã chỉ huy mũi chính tiêu diệt khu hầm ngầm của địch. Trước ngày vào bộ đội anh là một cậu bé chăn trâu. Vòng băng trắng trên trán như một vật trang sức làm cho khuôn mặt của anh thêm khôi ngô, sáng sủa.

Người dong dỏng cao, lông mày rậm, mắt hơi sâu, ngồi tư lự ở mép sạp là Lê Hồng Thỏa, người đã lọt vào đồn đầu tiên, đánh thẳng vào khu sở chỉ huy của địch. Bữa đó, chiếc đèn pin của anh đã rọi trúng vào một tên Mỹ râu quai nón, ngồi chồm hỗm cạnh chiếc màn ni-lông xanh. Nó đội mũ đồng, cầm trong tay một khẩu các-bin, không hiểu đang định chạy ra ngoài hay định nằm bẹp xuống đất. Thỏa cho nó luôn ba phát súng, tuy biết rõ cái lồng ngực đầy lông của nó không chịu nổi một phát. Các đồng chí đi theo anh đã diệt ba tên cố vấn Mỹ ở khu vực này.

Người vuông vức, nét mặt hiền lành, mặc quần đùi, ngồi ôm lấy đống lửa là Nguyễn Kim Dung. Chiều nay, anh vừa đi mần ăn về. Khi vào đây báo cáo, nghe tối có nói chuyện, Dung chạy xuống bếp xin anh nuôi lưng cơm nguội ăn, rồi ở đây luôn không về đơn vị. Anh ngồi như vậy vừa để sưởi, vừa để hơ quần áo. Cách đây ít lâu, Dung có dịp tạt qua thăm nhà ở Triệu Phong Quảng Trị. Bà mẹ soi đèn vào tận mặt con, nhìn một lúc rồi nói: “Không can chi, bọn hắn nói nhăng”. Dung thấy một cô gái ngồi sau lưng mẹ cứ giương mắt nhìn mình không chớp, bèn hỏi: “O ni con nhà ai?” Bà mẹ đang dở khóc dở mếu cũng phì cười. Cô gái nói: “Ngày ở nhà, anh đập em luôn, anh quên rồi ư?”. Anh mới biết đó là em gái mình. Nhìn kỹ em, anh chỉ nhận ra cái trán cao cao của nó ngày xưa. Một giờ sau, trước khi Dung ra đi, bà mẹ còn nắm tay anh nói: “Con là trai, còn giặc giã thì còn phải đi, nhưng đi mô cũng cố lấy vợ để mẹ kiếm chút cháu nội”. Trong trận An Lỗ, Dung chỉ huy một mũi giải quyết một góc đồn có nhiều lô-cốt địch. Sau khi vừa dập tắt một hỏa điểm từ trong boong-ke bắn ra, Dung lao lên toan ném thủ pháo vào một căn nhà, chợt nghe tiếng đàn bà, trẻ con kêu khóc. Cách đánh của những chiến sĩ thọc sâu này không cho phép họ được chậm trễ một phút, một giây. Nhưng những tiếng kêu khóc từ trong căn nhà vẳng ra đã chặn tay, chặn chân anh lại. Dung quát to: “Đàn bà, trẻ con ở trong ra hết bên ngoài”. Một toán người lớn, bé lếch thếch kéo ra. Dung hỏi lại: “Hết chưa?” Không có tiếng người đáp, anh ném vào một quả thủ pháo, đề phòng bên trong còn những tên địch ẩn núp. Sau đấy, anh lại bảo những người đàn bà và những đứa trẻ nhỏ trở vào căn nhà; ngồi trong đó, tránh mảnh đạn tốt hơn. Khi ấy, anh mới tiếp tục đánh các ngôi nhà khác tuy biết việc làm vừa rồi đã đánh động cho địch ở phía trước và tạo cho chúng đủ thời giờ chuẩn bị đối phó.

Người to đậm, có cặp mắt màu nâu, đội trên đầu chiếc mũ vải không có lưỡi trai, là Cu Bẩy, người dân tộc Pa-cô. Khi Mỹ mới vào Thừa Thiên, có các bạn đồng đội băn khoăn không hiểu Mỹ ra sao, Bẩy nói ngay: “Thằng Mỹ cũng chỉ có hai chân, hai tay như mình, nó có to như con voi, quả tim nó cũng không chứa được một viên đạn”. Trong trận đánh Mỹ đầu tiên của phân đội ở Đồng Lâm, mình Bẩy đã đánh tám quả thủ pháo, tiêu diệt hết bọn Mỹ trong ba chiếc nhà bạt. Bẩy đánh mê mải, không nghe thấy lệnh rút lui. Đồng chí tổ trưởng phải chạy tới, kéo tay Bẩy lôi ra, Bẩy trợn mắt hỏi: “Răng, thôi à?” Sau trận này, Bẩy nhất định cho là bọn Mỹ kém mắt, và đánh giá chúng khờ hon thằng ngụy nhiều.

Người có bộ mặt bụ sữa, ngồi gọn như một chú bé dưới cánh tay của đồng chí phái viên tác huấn to lớn là Thành. Thành ở trung đội của Văn Thế Hùng, vừa cầm chiếc đèn ló lên tìm Hùng có việc chi, thấy mọi người đang nghe nói chuyện, cũng xin ngồi lại. Thành mới vào bộ đội giải phóng, về đơn vị này ít ngày thì đi đánh trận An Lỗ. Đêm đó, vào gần căn cứ địch, Văn Thế Hùng lại bên Thành, nói:

– Cứ coi mình mà mần theo!

– Dạ.

– Phải cho lanh nghe!

– Dạ…

Hùng nói câu chi cậu ta cũng chỉ “dạ”. Nghe tiếng thở mạnh của Thành, anh nói:

– Bình tĩnh nghe!

– Dạ…

– Có sợ không?

– Dạ…

Cũng vẫn lại “dạ”? Một lần nữa, anh lại nghe người chiến sĩ thở mạnh như để trút cái gì nén trong lòng ngực. Anh biết Thành đang ở trong một trạng thái rất căng thẳng và tự bảo mình lát nữa phải chú ý giúp đỡ cậu ta. Nhưng khi đã vượt qua hàng rào dây thép gai thì người chiến sĩ lao vút lên như con sóc. Thành đánh sập ngay một ngôi nhà ngủ của bọn lính, làm xong gọn ghẽ phần việc đơn vị trao cho mình. Anh lao lên đánh tiếp thêm hai nhà khác, tiêu diệt hết bọn địch ở bên trong…
Họ đó! Họ chính là những người đã làm nên các sự việc được bà con dưới đồng bằng kể lại như những chuyện thần kỳ.

7.

Trong lúc Xương và tôi thay nhau nói chuyện, một cái nồi nhôm đã được đặt vào giữa đống lửa, trên những mấu cây đang cháy dở, Dung bẻ dần dần những bánh đường Quảng Nam màu vàng, hình tròn dẹp, bỏ vào nồi. Đồng chí phái viên có tuổi ngồi trên sạp, vươn tay qua vai Dưng, dốc vào nồi một túi đường trắng.

Nước trong nồi bắt đầu sủi. Phân đội trưởng Hồng từ trên sạp nhảy xuống canh đống lửa, cầm lấy đôi đũa trong tay Dung. Dung nói:

– Thủ trưởng cứ ngồi nghỉ. Tin tưởng ở quần chúng chớ lại.

– Tin mi việc khác, việc nấu kẹo ni thì không tin được.

Nước đường mỗi lúc một sánh. Bàn tay của Hồng điều khiển đôi đũa rất đều và dẻo, tuy cả cái thân hình dài thườn thượt của anh ngồi khạng nạng bên bếp vẫn cứng quèo. Củi đã bớt khói. Những hòn than đỏ hồng và trong, trông giống như những viên kẹo thật ngon.

Hồng ngẩng mặt về phía đồng chí y tá, tươi cười, gật gật đầu mấy cái, rồi nói:

– Mần mấy viên, cậu!

Bộ mặt đầy trứng cá của anh y tá bỗng trở nên nghiêm trang.

– Thủ trưởng có kỹ thuật cao, cần chi phải hãm chất chua.

– Kỹ thuật thì chắc chắn là cao rồi, nhưng cũng phải có tổ chức, vật chất đảm bảo chớ!

Anh y tá lặng lẽ mở túi thuốc, lấy một cái lọ thủy tinh, dốc ra lại bỏ vào mấy lần, rồi ném vào nồi nước đường đã đặc sánh mấy viên vi-ta-min C nho nhỏ màu trắng.

Hồng bắt đầu đổ lạc. Những viên lạc đỏ bóng, tròn mẩy như trứng chim đuổi nhau, rơi rào rào xuống nồi nước như một trận mưa đá. Hồng vẫn nguấy đũa đều, nhưng bây giờ anh phải đổi tay luôn. Đường từ màu vàng chuyển sang màu nâu, cạn dần, quyện chặt vào những viên lạc. Hồng giơ đũa để nhỏ một giọt đường xuống chậu thau nước lạnh. Giọt đường không tan. Anh vớt nó lên vê vê trong tay rồi lại tiếp tục nguấy đũa đều.

– Có mùi kẹo rồi, anh Hồng! – Đồng chí quản lý nói.

– Chưa có chi mô.

Hồng nói buông, nhưng đôi mắt chăm chăm nhìn những bong bóng đường sủi trong nồi.

– Được rồi đó, khuấy mãi thì khê!

Mọi câu chuyện phải tạm ngừng. Những cặp mắt đều hướng về nồi kẹo. Giờ phút này rất quan trọng. Không bắc nồi ra đúng lửa, kẹo sẽ ỉu, hoặc sẽ lại đường.

– Nhấc ra đi, có mùi cháy rồi! – Một người nói to.

– Bình tĩnh nào.

Hồng trả lời với vẻ tự tin và vẫn không ngừng tay khuấy đũa. Trong nồi, không thấy đường sủi nữa, chỉ còn những hột lạc đỏ bóng lọng quyện vào nhau thành một khối. Và đúng là đã có mùi thơm. Hồng quát:

– Ngồi dẹp ra, dẹp ra!

Những người ngồi trên sạp giạt sang hai bên. Hồng nhấc bổng cái nồi khỏi ngọn lửa, trèo nhanh lên sạp, đổ khối kẹo đặc sệt xuống mặt tờ báo đã được trải rộng. Những người ngồi chung quanh giúp anh, vừa gạt đường trong nồi xuống cho hết, vừa san kẹo cho mỏng đều trên tờ giấy.

Chính trị viên Lực từ đầu đến giờ, vẫn ngồi im lặng bên chiếc bàn, bỗng nói:

– Về chỗ thôi!

Lực muốn câu chuyện của chúng tôi lại tiếp tục.

Vẫn phải chờ một thời gian nữa cho kẹo khô, khi đó mới rõ hoàn toàn kết quả. Hồng trở về chỗ cũ của anh tại sạp bên kia, mở sà-cột lấy ra một gói chè, trao cho Dung. Anh bỏ ống tay áo xắn cao xuống cho đỡ lạnh, ngồi xếp chân bằng tròn, xoa xoa hai bàn tay vào nhau với vẻ khoan khoái.

Xương kể tiếp một câu chuyện không biết anh nghe ở đâu. Câu chuyện về một bà nhà văn ở một nước tư bản vùng Bắc Âu. Bà rất giàu nhưng không tìm được hạnh phúc trong sự giàu sang tại Tổ quốc mình. Bà xin sang thăm Việt Nam và được đến Hà Nội. Bà nhìn thấy cuộc sống ở thủ đô của chúng ta cái gì cũng lạ. Một hôm, bà dạo chơi trên đường Thanh Niên, con đường nằm giữa Hồ Tây và hồ Trúc Bạch đã được Bác Hồ đặt tên. Bà thấy người dân Hà Nội trong khi đánh Mỹ, vẫn chăm sóc được những vườn hoa thật đẹp. Có một cái bảng nhỏ cắm ở vườn hoa. Bà hỏi anh phiên dịch đi theo, người ta viết gì trên bảng. Người phiên dịch nói: “Đó là một câu thơ. Ở đất nước chúng tôi, mọi người đều yêu thơ, đều thuộc truyện Kiều. Nhiều người nói ra miệng là thành thơ”. Bà yêu cầu dịch cho nghe câu thơ đó. Người phiên dịch đọc câu thơ trên bảng “Yêu hoa chớ có hái hoa…”, và giảng nghĩa cho bà. Bà nhà văn đứng lặng đi vì cảm động. Miền Bắc Âu trời rất lạnh. Trước khi sang Việt Nam, nghe nói ở đây còn nhiều người đi chân đất, bà nhà văn không hiểu sao người ta có thể sống nổi nếu không có giày. Bà cho là dân nước này nếu không lạc hậu thì cũng còn nghèo khổ quá. Tới Việt Nam, bà vẫn thấy có những người đi chân đất, nhưng quan niệm của bà về Việt Nam đã thay đổi. Bà nói với đồng chí phiên dịch “Nhân dân đất nước các ông thật là kỳ lạ. Người dân Việt Nam văn minh lạ lùng.” Trước khi về nước, bà nói: “Đến Việt Nam rồi, tôi thấy yêu con người hơn, yêu cuộc sống hơn, con người ở đây là con người sống có lý tưởng.” Từ đó đến nay, bà làm nhiều việc phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Có lẽ, bà đã bớt buồn nhiều…

Câu chuyện được mọi người nghe chăm chú. Dung ngó xuống đôi bàn chân có những ngón vuông chằn chặn, lấm lem của anh, mỉm cười. Hùng ngẩng đầu nhìn chúng tôi với đôi mắt xếch một mí giống như cặp mắt của một cô gái, rồi nói:

– Mình thì không khi mô thấy buồn. Có kẹo đậu phụng liên hoan như bữa ni thì vui đã đành, không có kẹo cũng vẫn cứ vui. Công việc nhiều không răng mà buồn được.

Đồng chí phái viên có tuổi nói to:

– Kẹo được rồi, đạt tiêu chuẩn.

Mọi người đều vui vẻ tưởng như những lời bàn ra tán vào của mình vừa rồi đều góp phần hoàn thành bữa kẹo. Đến phút chót, Hồng mới ném ra sạp một gói thuốc lá Ru-by giấy bao còn bóng láng.

8.

Gói trà của phân đội trưởng Hồng làm cho tôi đêm nay thao thức không ngủ được. Hồng không uống trà, không hút thuốc, những thứ anh đã mất công sức kiếm về. Anh chỉ ăn một miếng kẹo nhỏ như để đánh giá việc làm của mình. Ai đưa kẹo thêm, anh cũng lắc đầu. Anh ngồi bên ngoài nhìn mọi người ăn kẹo, hút thuốc, uống trà với đôi mắt lim dim, coi bộ rất bằng lòng. Cái phân đội nhỏ này giống như một gia đình, một gia đình rất hòa thuận. Những người khách như chúng tôi cũng được hưởng không khí gia đình đó. Trong một buổi trao đổi, Lực đã nói với chúng tôi: “Ở ni, anh em không ai có của riêng. Một người trong tiểu đội có món quà chi, thì đó là quà chung của cả tiểu đội. Một lăn thuốc cũng chia. Một gói kẹo cũng chia. Một lá thư của người yêu cũng xem chung. Anh em rất thương nhau. Rứa cũng có lúc trở ngại cho công tác. Người đã về tới đây là không ưng đi mô nữa”.

Mọi người đã ngủ từ lâu. Chập tối, máy bay địch hoạt động nhiều. Từ nửa đêm đến giờ không gian yên tĩnh lạ thường; Thỉnh thoảng có tiếng chim đêm. Loài chim bao giờ cũng giấu mặt đó có những tiếng kêu thật buồn và thật cô đơn. Tôi nằm lắng nghe tiếng một con chim vừa kêu vừa bay xa dần rồi mất hút trong đêm. Tiếng kêu của con chim rừng đã làm cho đêm trở nên sâu thẳm. Bỗng từ khoảng sâu thẳm ấy của đêm khuya vẳng lại một tiếng gì mơ hồ, khi nhỏ khi to như tiếng gió. Sao lại có một trận gió rừng lớn như thế này? Chập tối, đã nghe đài báo thời tiết từ hôm nay bắt đầu tốt. Tôi cố lắng nghe xem có đúng là tiếng gió không. Có cái gì gầm gừ như tiếng sóng biển chứ không phải tiếng gió. Sao lại có tiếng sóng biển. Ở đây, dù yên tĩnh đến đâu, cũng không nghe được những tiếng sóng ở ngoài biển Đông, cả những khi biển động. Tôi chợt nhớ ra… Đúng rồi! Nhưng tôi chưa kịp đánh thức mọi người thì đã nghe tiếng réo mạnh và bom nổ liên hồi.

Cùng một lúc, tất cả những người đang ngủ đều vùng dậy. Chúng tôi theo nhau chạy xuống hầm. Mọi đêm, bom nổ gần, Hồng vẫn nằm gan, lúc này, cũng thấy anh lững thững đi theo mọi người. B.52 của địch đang thả bom. Những đợt sóng chấn động liên tiếp phả vào người chúng tôi. Tiếng bom đã dứt; chưa ngửi thấy mùi khét; loạt bom đầu này chỉ mới chớm đến khu vực của chúng tôi.

Chúng tôi đã ngồi yên trí trong căn hầm hình tam giác, có những cây gỗ ken liền, gối đầu vào nhau. Không gian trở lại im lặng. Những giọt nước nhỏ lóc tóc. Bọn chúng không bao giờ bỏ một loạt. Lần tới này, có thể chúng sẽ vãi trên đầu chúng tôi. Mọi người ngồi nghiêm trang chờ những tiếng gầm gừ từ góc trời xa đó vọng đến.

Ù ù… ù ù… “Nó đến rồi!” Có ai vừa nói dứt lời thì nghe tiếng bom réo.

Những tiếng nổ đuổi nhau rất nhanh về phía hầm chứng tôi đang ngồi. Đó là tiếng những bước chân nặng nề của một đàn voi bị xua đuổi cùng một lúc, chạy lồng lên. Những ánh lửa đỏ chớp liên hồi ở cửa hầm, tiếp theo là những đợt chấn động mạnh. Được cái hầm này có hai cửa, không thì sẽ rất khó thở. Những tiếng nổ vụt lớn hơn phũ phàng hơn. Có cái gì giống như một tên ác ôn điên người vì tuyệt vọng trong một cuộc tra hỏi, đang lồng lộn dồn hết sức lực vào đầu ngọn roi quật lấy quật để. Có người buông một câu chửi tục. Căn hầm rung mạnh. Ngực đột nhiên tức thở và hai tai ù đi. Sau đó, những tiếng nổ bớt dữ dội dần. Đàn voi đã bước qua đầu chúng tôi.

Đất đã nằm im trở lại. Nhưng không gian còn rung động. Chúng tôi nghe thấy tiếng máy bay địch trên đầu. Hết trò rồi. Chúng cút đó. Nhưng chắc là còn những thằng khác sắp tới. Một cành cây bây giờ mới gãy kêu răng rắc rồi lao xuống đất đánh ầm. Chúng tôi còn phải ngồi trong hầm tiếp tục chờ đợi. Trong bóng tối, có ai nói vào tai tôi:

– Coi đúng như bữa kẹo đậu phụng khi hồi.

Tôi không nhận ra ai ngồi cạnh mình nhưng biết rõ anh ta đang mỉm cười. Câu ví của anh hay hay. Cũng có cái gì giống như lúc chập tối, khi Hồng trút những hạt lạc đỏ bóng xuống nồi nước đường đang sủi. Đợt dội bom của chúng còn tiếp tục. Trong tiếng nổ, chúng tôi còn nghe cả tiếng đổ của những cây rừng.

Chung quanh đã yên tĩnh trở lại. Lại nghe tiếng nước nhỏ lóc tóc.

– Lên được rồi đó!

Phân đội trưởng Hồng có vẻ sốt ruột. Chúng tôi cùng ra khỏi hầm. Căn nhà nhỏ của phân đội vẫn y nguyên. Chỉ có đống than củi ở giữa nhà là bay tung tóe. Nó đã làm cháy chiếc khăn của Xương cùng với đôi dép của tôi. Những đợt bom của địch dù dày đến mấy vẫn để chừa ra nhiều khoảng trống cho những ngôi nhà, những căn hầm.

Máy điện thoại kêu. Hồng nói:

– Tốt, đây không can chi.

Khắp nơi gọi đến hỏi tin tức. Các nhân viên ở phân đội bộ chia nhau chạy đi các nơi nắm tình hình. Họ vừa đi khỏi thì Hùng hấp tấp kéo miếng bạt che cửa, bước vào.
Hồng hơi đổi sắc mặt, hỏi:

– Răng? Hùng, có chuyện chi?

Hùng đưa cặp mắt xếch nhìn quanh một lượt:

– Tui lên coi các anh có ai can chi không, còn bọn tui thì không ai can chi hết.

Nét mặt Hồng giãn ra.

Những người đi xuống các trung đội đã quay về, đất bám đầy quần áo, nhưng ai nấy mặt tươi tỉnh. Nhà của tiểu đội bốn bị sập, đất lấp cửa hầm, nhưng sau đó anh em đã bới được cửa chui ra. Họ đã phân tán sang ở với các tiểu đội khác. Trừ một người bị điếc tai vì tiếng nổ, cả phân đội không ai việc gì. Bọn chúng vẫn chỉ là những thằng mù!

Chỉ sau khi báo cáo đủ với các nơi về tình hình của đơn vị, Hồng mới đi nằm. Anh đã ra lệnh cho toàn thể mọi người phải ngủ hầm, nhưng chính anh vẫn ngủ trên sạp. Cũng có một lý do vì khách của phân đội tối nay đông quá, không đủ chỗ ngủ dưới hầm.

Đồng chí liên lạc đã nhen lại đống lửa cạnh chỗ tôi nằm. Căn nhà yên tĩnh như khi chưa có trận ném bom. Lực ban nãy nằm bên tôi giờ không biết đi đâu. Có lẽ anh xuống tiểu đội 4. Xương trùm trên người chiếc màn thay cho cái chăn bị cháy. Tiếng thở của anh đều đều. Anh đã tìm ngay lại được giấc ngủ ngon lành. Chợt nhớ những lần vượt sông, tôi bất giác mỉm cười.

Tôi bỗng cảm thấy mình và những người đang nằm xung quanh đây trở nên gắn bó, thân thiết lạ thường.

9.

Bữa cơm sáng hôm nay, anh nuôi vẫn cho ăn đúng giờ như thường lệ, mặc dầu cái bếp hơi bị hỏng. Dọc con đường xuống nhà ăn, quang cảnh đổi khác. Đất bám vàng những thân cây như mối xông. Những cành cây gãy chắn ngang lối. Nước suối đỏ ngầu.

Tại nhà ăn, các chiến sĩ đang xúm quanh anh “giáo viên”. Đó là một chiến sĩ mới được bổ sung về đơn vị. Trước ngày vào bộ đội, anh làm nghề dạy học. Hùng đã có lần khoe với tôi là anh chiến sĩ này nói chuyện rất hay. Những câu chuyện của anh vừa hấp dẫn, vừa có tác dụng giáo dục, động viên. Hùng kể có những lúc anh nằm giả vờ ngủ để nghe anh “giáo viên” nói chuyện với anh em. Không biết anh ta đang kể một câu chuyện gì mới, những người đứng xung quanh, có cả đồng chí quản lý, lắng nghe rất chăm chú.
Sáng nay, anh nuôi cho ăn một món ăn mới: tấm gạo nấu với bột ngọt, muối, ớt, trộn thêm những lá mùi tàu thành một thứ nước xốt.

Sau bữa cơm, các trung đội lên nhận khoa mục luyện tập. Trừ một tiểu đội bận vào việc xây dựng lại căn nhà bị bom phá hỏng đêm qua, các đơn vị vẫn làm những công việc thường lệ. Một số chiến sĩ mới bổ sung, đang được luyện tập ráo riết để kịp có mặt trong trận đánh sắp tới.

Những đồng chí nhận khoa mục huấn luyện vừa đi khỏi, Hùng và Thỏa tiến vào. Hai người đều mặc quần đùi, khoác tiểu liên và đeo ở thắt lưng một vắt cơm. Chúng tôi đã đoán được họ đi đâu. Hồng chỉ nói với hai người một câu gọn lỏn:

– Đi mần ăn cho tốt. “Kế hoạch Hà Nội đó”. Các nhà báo đã tới nằm ở đơn vị mình ngay từ bây chừ.

– Rõ.

Hùng và Thỏa đứng nghiêm trả lời. Như những nhạc công lành nghề, đã phối hợp với nhau từ lâu trong một dàn nhạc, chỉ cần một cái đưa mắt của người chỉ huy là họ đã biết ngay nên điều khiển nhạc cụ trong tay thế nào. Mọi việc phức tạp đã vào nề nếp và trở nên giản dị.

Hai người cán bộ, một cao, một thấp quay về phía chúng tôi, mỉm cười:

– Các đồng chí ở nhà, bọn tui đi.

Họ nhẹ nhàng vượt qua những cành cây đổ, đi xuống con suối nước vẫn đục ngầu vì trận bom. Họ đi để chuẩn bị lần cuối cùng một trận đánh quyết liệt. Mọi chiến công vang dội ở đây đều bắt đầu giản dị như thế kia. Chắc họ đã quên biến những gì kẻ địch đã dội xuống đầu họ lúc nửa đêm. Họ đang nghĩ đến Hà Nội, đang tính chuyện bắt quân thù phải trả bằng một giá đắt ở đây mỗi trái bom chúng đã buông xuống các đường phố của thủ đô.

VI.

1.

Chúng tôi lại tiếp tục chặng đường đi lên phía bắc.

Mùa xuân đã trở về. Những dải ánh nắng mặt trời xuyên qua vòm cây như những sợi tơ năm sắc óng ánh giăng mắc khắp nơi. Núi rừng đang được sưởi ấm lại. Thiên nhiên, trong bước đi tuần hoàn không thay đổi lại kiên nhẫn, cố gắng hàn lại những vết thương do kẻ thù của loài người gây nên. Màu xanh của lớp lá mới nảy trên đám tro xám của Trường Sơn như lớp da non đang phủ dần vết bỏng na-pan trên má cô gái đẹp.

Các đơn vị giải phóng tràn đầy sức sống đang tiến ra mặt trận. Trị – Thiên đã nổ súng mãnh liệt hòa nhịp với tiếng súng mở đầu mùa khô trên toàn miền Nam, nhưng thực ra, từ nay, mùa khô của Trị – Thiên mới bắt đầu. Lên đường. Lên đường. Cuộc chiến đấu không dừng lại dù chỉ là để xả hơi chốc lát, không yếu đi mà cứ phải mạnh hơn, mạnh hơn mãi. Những người chiến đấu giữ nước đánh giặc ngoài hai mươi năm vẫn trường sức, đang cố làm cho đất nước không có mùa mưa và mùa khô, bốn mùa đều là mùa đánh giặc.

Họ đi xuống đồng bằng. Họ đi ra đường số 1, nơi kẻ thù đang tự căng thân chúng ra để gìn giữ và cũng là để hủy hoại. Họ đi về phía đường số 9. Mỹ đã dồn quân ra con đường này từ mùa hè năm trước. Chúng rải các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ, con hoàng bài của những đạo quân vượt biển đi ăn cướp, thành một tuyến dài, đóng đồn bốt, quay mặt về phía bắc. Một dòng sông Bến Hải chưa đủ, chúng đang dựng thêm một vành đai người và mìn để chia cắt đất nước ta. Ngày này qua ngày khác, máy bay B.52 dội bom, phát quang hai bên đường, máy bay lên thẳng ném xuống các ngọn đồi những chiếc lô-cốt đúc sẵn. Trên bản đồ, dọc theo dòng sông đau thương lại hiện lên những chấm xanh nhơ bẩn ở Đông Hà, Cồn Tiên, Dốc Miếu, Khe Sanh…

Cứ mỗi năm, hậu phương lại chuẩn bị cho người ra trận chu đáo hơn. Mọi thứ các chiến sĩ mang trên người đều rất mới, từ bộ quân phục lá cây dày dặn, cái ba-lô ba túi, đường chỉ máy chắc chắn, khẩu súng nước thép tím biếc đến đôi giày cao-su cao cổ, chiếc dây lưng da mềm mại, bao gạo dài vắt trên vai. Trang bị có hơi nặng nề, vì người ra trận không mang cho kẻ thù những cành hoa. Bọn chúng nó cần sắt thép. Những vật quý giá này hậu phương đã đổ mồ hôi và máu để cho ta, ta sẽ mang đến tận nơi và sẽ dùng thật đúng chỗ. Sự chăm sóc của hậu phương cũng đang chiến đấu còn hiện lên rất rõ ở đôi má hồng hào sức khỏe của các chiến sĩ, ở đôi mắt sáng rực niềm tin chiến thắng.

Đồng chí cán bộ có hàng ria xanh, thân hình to nặng, ống quần vê tròn, cầm cái gậy lụi dẫn đầu đoàn quân với đôi chân vẫn dẻo dai kia, có phải là người ở Phong Điền đã bỏ làng xóm chạy lên xanh sau những đợt “tố cộng” đầu tiên đó không? Người ta sống không phải chỉ cần có cơm gạo. Vậy mà ở đây kẻ thù không dành cho ta cả đến một hạt gạo để sống. Anh không thể nào quên cái đêm đen tối ấy, từ đám cỏ lác ngoài bờ phá, lần vô xóm với hai cẳng chân run lảy bảy. Anh cần một lưng cơm nguội để hồi sức. Nhưng người chị ruột nước mắt đầm đìa, dúi vào tay em một bọc tiền. Nếu chúng nó tìm được một dấu chân với vài hạt cơm vãi ở ngoài vườn nhà chị, có nghĩa là vợ chồng chị, các đứa con thơ ngây của chị sẽ phải chết. Nhưng khi thấy cần phải sống thì ngay cả lúc không có một hạt gạo để sống, con người vẫn cứ sống. Ngoài mười năm rồi, những người bị kẻ thù tước đoạt mọi quyền sống, vẫn sống như thế kia. Họ không chịu sống một cuộc đời bình thường. Họ đã sống như những con chim đại bàng, lên rừng, xuống biển, ra Bắc, vào Nam, mỗi lần vỗ đôi cánh rộng là làm cho kẻ thù kinh hãi.

Anh chiến sĩ có nước da đồng hun, đượm màu nắng và gió biển, vừa quệt mồ hôi trán, xốc lại cái ba-lô nặng, lao mình chạy xuống dốc, miệng mỉm cười để lộ đôi hàm răng đều và chắc, có phải là người của một làng chài ở Cửa Việt đó không? Chắc anh rất nhớ những buổi sớm mai ra khơi trên con thuyền có những cánh buồm trắng làm bằng cây đệm, trong khoang, những thùng nước ngọt đã được đổ đầy. Thuyền được gió đi trên những luống cày đỏ rực của mặt trời, có đàn chim hải âu bay theo. Đêm đến, biển buồn, những vì sao sáng lạnh xuống thấp hơn khi ở đất liền cho con người đỡ thấy mênh mông. Những đàn cá chuồn bay quanh thuyền với tiếng kêu re re, làm tung những giọt nước mặn xanh biếc, rực rỡ khi chúng ném mình trên mặt sóng. Những ngày anh còn là một chú bé tha thẩn trên bờ một hòn đảo xa, tìm những quả trứng bích vùi dưới bãi cát, những con ốc hình thù kỳ lạ hay những chiếc bóng đèn màu từ một chiếc tàu biển giạt vào; những ngày anh đã trở thành người con trai của vạn chài biết buông câu nhử mồi đàn cá thu bằng những chiếc lông gà, biết thả chuôm quây lưới đánh cá nục; ai biết anh đã dành bao nhiêu thời giờ ngồi nhìn những hàng dương xanh ở Cửa Tùng quê mẹ, nhìn những cánh buồm nâu căng gió từ đó cũng ra khơi. Dòng sông Bến Hải đến đây đã hòa tan trong biển lớn, nhưng ngay trên mặt biển này, kẻ thù cũng đem những con sóng chia đôi.

Anh chiến sĩ không mang súng, người dỏng cao, có một vệt chàm ở quanh mắt – vệt chàm như những nét chì hóa trang đã làm cho đôi mắt anh trở nên sâu thẳm, suy nghĩ và mơ mộng – đeo bên sườn chiếc túi da to in hình chữ thập đỏ, đang cố ghìm đôi chân dài đi sau lưng một chiến sĩ bé nhỏ, chống gậy tập tễnh, có phải người ở thành phố Huế ra đó không? Chắc anh còn để lại đó một cô bạn gái rất thân, tóc thề mới chấm ngang vai, mặc áo dài trắng, chiều chiều đứng đợi đò ngang ở những bậc đá bên bờ sông Hương. Trên sông, những thằng Mỹ mình trần da và lông đều đỏ cháy vì nắng, đang phóng ca-nô xé nước, chơi trò lướt ván. Anh có nhớ những tiếng ầm ầm khó chịu của đoàn xe nhà binh chở nặng phóng qua cầu Bạch Hổ và những tiếng hát khê nồng của một thằng Mỹ say nằm dạng chân trên chiếc xích-lô máy chạy ngang cửa chợ Đông Ba; những ngày hè, hai hàng cây phượng bên sông nở đầy hoa lửa, đoàn người đổ xuống đường đấu tranh; những đêm cầu Tràng Tiền im ắng chỉ còn những ngọn đèn xanh đỏ lập lòe, những cây mù u đứng buồn bã trên phố khuya vắng lặng sau hai hồi còi rền rĩ báo hiệu giờ thiết quân luật… Anh có thể nào quên cô gái có cặp mắt xếch, đôi môi mềm mại hay cười bẽn lẽn, buổi chiều, một tay dắt đứa em nhỏ, một tay cầm chiếc khăn bọc kín bên trong một quả lựu đạn. Một tiếng nổ dậy lên trong căn nhà bọn Mỹ ở. Bốn thằng giặc nằm vật ra trên vũng máu. Cô gái vẫn cầm tay em, dừng chân trên đường ngơ ngác nhìn những thằng Mỹ, thằng ngụy nhớn nhác chạy lại; chúng chưa hiểu tai nạn gì đã xảy ra. Rồi cô lại tiếp tục dắt em đi chơi, chiếc khăn vẫn nằm ở bàn tay mềm mại, nhưng trong đó, quả lựu đạn không còn. Ôi, em đang làm gì ở đó hôm nay, người em nhỏ dịu dàng…

Các đồng chí ở dinh điền chi khu Ba Lòng với những ngôi nhà nằm trong hàng rào kẽm gai, trụi lủi không một bóng cây ra đây, hay từ xã Phong Sơn giải phóng đồng bào đang tiếp tục làm lại nhà ngay trên bờ những hố bom, hố đại bác kẻ thù vừa trút xuống? Hay các đồng chí ở một miền xa xôi nào của đất nước tới đây?

Tiếng lá ngụy trang rào rào. Nước đựng trong những chiếc bi-đông đã vợi, đập vào thành bình róc rách. Những bao gạo dài vắt trên vai vỗ vào ba-lô. Tiếng những chiếc đế giày mới ót ét. Hơi thở gấp của những lá phổi khỏe mạnh làm ấm cả núi rừng. Đoàn quân trải dài trên những quả núi, phân biệt với màu xanh của cây rừng bằng sự chuyển động. Trường Sơn trầm mặc bỗng xốn xang với mùa xuân, với bước đi êm nhẹ của những đoàn quân. Những búi cây vông vang nở đầy hoa như có hàng ngàn con bướm trắng đang từ đó bay lên.

2.

Chúng tôi gặp lại bác sĩ Hoàng Hữu Hải bên bờ một con suối thuộc đất Quảng Trị.

Lần đầu chúng tôi cũng gặp anh ở một con suối. Trưa hôm đó, chúng tôi đang lội dọc theo một khe suối đầy những cây đổ nằm ngang. Đồng chí dẫn đường bảo chúng tôi đi rảo bước vì quãng đường này máy bay địch đã đánh phá nhiều lần. Trong lúc chúng tôi chăm chú dán mắt xuống từng hòn đá cuội trơn nhãy, những đám đất nhão nước váng đỏ như gỉ đồng, để đi cho nhanh thì chợt nhìn thấy hai người ngồi ung dung trên một phiến đá giữa dòng suối. Một người to lớn mặc quần áo chiến sĩ giải phóng màu xám nhạt, mặt vuông, lông mày lưỡi mác rậm đen, hai con mắt to và sáng. Người kia làm chúng tôi chú ý hơn vì cách ăn mặc và dáng dấp của anh. Anh đội một chiếc mũ nhựa màu trắng ngà to vành có những múi giả, mặc một cái áo cổ vuông màu da trời và cái quần đùi trắng, những thứ hiếm thấy trên chiến trường này. Chiếc khăn mặt vắt trên cổ cũng như bộ quần áo của anh đều rất sạch sẽ. Trông anh giống như một viên chức, sáng sủa, linh lợi và hơi nhàn rỗi. Tôi đoán anh mới ở Huế lên hay ít ra, cũng là người của ta đã hoạt động lâu ngày ở các thị trấn. Rồi tôi lại đoán anh là một cán bộ của ngành kinh tế. Đi khỏi đó một quãng, mấy chúng tôi cùng hỏi đồng chí dẫn đường, anh áo xanh đó công tác gì. Anh nói: “Đồng chí ấy là bác sĩ”. Chúng tôi cảm thấy mình không hoàn toàn bị lầm. Ít ra cũng phải là như thế. Và cũng không ai hỏi gì thêm về ông bác sĩ mặc bộ quần áo lót trắng quá và sạch sẽ quá khi đi đường, ngồi nghỉ giữa một quãng trống địch hay ném bom.

Đến phân khu, chúng tôi gặp lại Hải và người bạn đường của anh. Người đi cùng Hải là Phan Thanh Chung 1, một chiến sĩ thọc sâu dũng cảm, đã được tuyển lựa đi dự Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua và dũng sĩ toàn miền Nam. Chúng tôi lại một lần nữa ngạc nhiên về Hải. Chính anh cũng là một đại biểu đã được phân khu tuyển lựa để đi dự đại hội. Sau đó ít ngày, Hải đã cùng đoàn đại biểu dũng sĩ của Trị – Thiên lên đường vô miền. Không hiểu tại sao anh lại ở đây.

Hải xanh và gày, người càng nhỏ nhắn trong bộ quần áo bà ba đen. Anh đang ngồi nghỉ bên bờ suối, chiếc mũ giải phóng bỏ xuống sau lưng để lộ mái tóc đen mềm mại và một vừng trán cao thông minh. Nhận ra chúng tôi, anh đứng lên, dáng điệu mừng rỡ. Đáp lại câu hỏi ngạc nhiên của chúng tôi, anh mỉm cười rồi nói:

– Tôi bị đau nên quay ra.

– Đau sao? – Một người trong chúng tôi sốt sắng hỏi.

– Thấp khớp, vẫn bịnh cũ từ trước, không ngờ năm ni hắn lại rầy mình. Cũng may là đi chưa xa.

Tôi nhớ lại bữa trước khi đoàn bàn việc đi vô, Hải đã nhận sẽ giúp đỡ cho Nguyễn Viết Phong trên dọc đường; Phong từ trước tới nay toàn ở đồng bằng, chưa quen leo núi. Không ngờ người bỏ dở cuộc đi đầu tiên lại là anh. Bệnh tật đã đến trêu ngay chính người thày thuốc.

Nguyễn, đồng chí họa sĩ có tuổi cùng đi, cũng đã theo kịp. Bắt đầu lên đường, anh chiến sĩ giao liên trẻ đứng ngắm hai bắp chân rất to của Nguyễn rồi nói: “Chú đi nhứt định là chậm”. Vào cuộc, quả như vậy. Chỉ đi được một quãng là Nguyễn lại bị tụt lại sau lưng chúng tôi rất xa. Bác đi chậm và khó khăn với cặp chân chữ bát lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh. Nhưng tới mỗi chặng nghỉ, khi chúng tôi không còn muốn làm gì ngoài việc ngồi cho những bắp thịt trên người giãn ra thì bác bỏ ba-lô xuống là bắt tay vào vẽ luôn. Bác vẽ cho hết giờ nghỉ. Lên đường một quãng, bác lại mất hút phía sau và khi theo kịp chúng tôi ở chặng nghỉ, bác lại tiếp tục vẽ. Cái gì trên dọc đường này bác cũng đều thấy hay và muốn ghi lại. Bác có tham vọng đóng góp những bức tranh của mình vào bảo tàng mỹ thuật của miền Nam sau này. Nhìn thấy Hải, Nguyễn kêu lên:

– Trời! Bác sĩ nói với bọn tôi đi vô mà giờ lại đi ra?

Hải mỉm cười, chưa kịp trả lời thì bác sôi nổi nói tiếp:

– Mình đã nghĩ ra cái “tựa” cho bức tranh rồi. Thể hiện anh đang đứng mổ cho bịnh nhân thì không hay, sẽ giống như mọi người đã làm. Tôi sẽ vẽ anh lúc ở trong buồng mổ vừa bước ra. Anh đang trả lời mấy đồng chí giải phóng đứng chờ tin ở bên ngoài. Dưới bức tranh, tôi sẽ đề là: “Đồng chí ấy đã tỉnh rồi!”. Cái “tựa” đó được không anh? “Đồng chí ấy đã tỉnh rồi!” Độc đáo lắm đó! Hay lắm chớ, phải không anh?

Những ngày ở phân khu, chúng tôi đã được nghe nhiều chuyện về đồng chí bác sĩ phụ trách bệnh viện Quảng Trị, tự mình đi cáng thương binh về, đào hầm, làm lán, gùi gạo, lấy rau cho thương binh, di chuyển anh em dưới những trận bom, vượt ra ngoài vòng vây của địch, đã giải quyết được nhiều trường hợp mổ rất nguy hiểm trong những điều kiện khó khăn. Hải đã trở thành một nhân vật trong tập tranh của Nguyễn.

– Dạ…

Đôi gò má xanh xao của Hải ửng đỏ. Anh thường tỏ ra lúng túng khi nghe nói về mình.

– Bữa nay, ngó bộ sao mà còm vậy? Cứ ngồi nói chuyện đi. Mình sẽ ghi một chút xíu nghen! Bữa trước ghi như vậy coi bộ không hợp với cái “tựa” tôi vừa nói với anh.

Hải ngồi ngượng nghịu, mấy ngón tay của anh xoay xoay cái nhẫn cưới. Cái nhẫn đã trở nên hơi rộng. Anh rút nó ra, chuyển sang ngón tay giữa. Rồi không hiểu tại sao anh lại rút nó ra một lần nữa, tung tung trên tay. Anh có những ngón tay nhỏ và dài, đúng là những ngón tay khéo léo của một bác sĩ phẫu thuật.

Bỗng Hải nói với chúng tôi:

– Cái nhẫn ni không phải của tôi, các anh à. Hồi xưa, vợ chồng chúng tôi lấy nhau không có nhẫn cưới. Nhẫn ni là của một người bạn cùng công tác tại bịnh viện. Đúng là nhẫn cưới của đồng chí đó. Trước ngày tôi đi miền, đồng chí đó tháo hắn ra khỏi tay đeo vô tay tôi. Đồng chí lo do dọc đường lỡ có lúc tôi ốm đau hoặc gặp địch càn, lạc anh em, phải cần đến tiền. Đồng chí đó nhứt định bắt tôi phải nhận. Đồng chí đó nói tới nói lui đừng coi hắn là vật kỷ niệm nữa, hãy coi hắn chỉ là chút “lương khô”, khi cần thì cứ bán đi. Một điều khiến tôi suy nghĩ, thiệt ra, những ngày sống chung với nhau, chúng tôi không thân nhau lắm…

Hải lấy cái ví trong túi ra, rút một mảnh giấy gói cái nhẫn lại cẩn thận rồi bỏ vào trong.

– Có lý mô tôi lại quên hắn là một vật kỷ niệm rất thiêng liêng của đồng chí đó. Tôi mang đi để nhớ tới một người bạn, một tấm lòng, ngày về, tôi sẽ trao trả.

Hải vẫn cầm chiếc ví nhựa nhiều ngăn, lằng nhằng những hình vẽ trong tay, dáng điệu trầm ngâm.

– Người ta chỉ đánh giá đúng tình cảm đối với nhau khi xa nhau…

Anh xoay xoay cái ví trong tay. Hình như anh có một điều gì phải nghĩ ngợi. Rồi anh rút trong ví ra một cuốn sổ nhỏ, cuốn nhật ký của anh mà tôi đã được biết. Mặt tươi rói lên, anh nói:

– Xin báo với các anh một tin vui: Tôi đang nằm ở bệnh viện của phân khu thì nhận được một lá thư nhà.

– Thế ư… – Tôi reo lên, san sẻ niềm vui với anh.

– Dạ… Tôi định đưa anh coi lá thư… Nhưng bây chừ, tôi nghĩ đưa anh coi một bài thơ tôi mới làm thì hơn…

Hải mở cuốn sổ tay tới trang có một bài thơ được ghi bằng nhũng chữ nhỏ li ti, không có một chỗ dập xóa.

Tôi cầm cuốn sổ đọc những dòng chữ viết rất hoạt, thứ chữ như những người thầy thuốc. Đúng ra, đây là một trang nhật ký được ghi lại bằng thơ. Hải đã ghi lại trong đó những cảm xúc khi anh nhận được lá thư của vợ anh từ miền Bắc không biết đi theo con đường nào tới đây.

… Lá thư em
Đến tay anh trong ánh sáng sớm mai
Khi những lớp sương mù tan dở
Cầm thư em, tay anh còn ngợ
Sợ nó bỗng thành con chim nhỏ bay đi
Anh lặng yên ngắm chiếc phong bì
Những dòng chữ run run tự tay em viết
Những nét mực
Hay cả lòng tha thiết
Đề tên anh và ghi cả lòng em
Bóc thư rồi, anh chẳng dám xem
Sợ tin không lành
Anh sợ cả niềm thương…
… Đọc thư em, anh ngơ ngẩn sáng chiều…
… Anh sung sướng vì người vợ đẹp
Hay vì anh đang đứng trong lửa thép
Hay vì con biết phép cộng, trừ
Có lẽ vì tất cả
Vì em – Vì con – Vì anh nữa
Vì chúng ta cùng vượt lửa xông lên
Vì chúng ta biết hạnh phúc vững bền
Chỉ có thể xây trên chiến thắng
Em ơi! Sáng nay, trời hồng đẹp nắng
Nhận thư em
Anh nhận cả niềm tin.

Quê Hải ở Triệu Phong, Quảng Trị. Sau ngày Hải bỏ nhà đi hoạt động cách mạng, gia đình anh càng bị địch khủng bố ráo riết. Cuối cùng, vợ anh đã tìm được cách cùng hai con nhỏ lánh ra miền Bắc. Và bây giờ, chị đang theo học một lớp y sĩ trung cấp ở ngoài đó. Như chị nói, chị chọn nghề y để mong có ngày được trở về Nam, cùng làm việc với anh trong một bệnh viện.

Chờ tôi xem hết lá thơ, Hải đưa tiếp cho tôi một bức ảnh. Tôi nhận thấy tay anh run run. Trong ảnh, một người đàn bà dắt tay hai đứa nhỏ đứng cạnh một cây dừa trên bãi biển. Xa xa là những cánh buồm, những hòn núi đá lô nhô đẹp như vẽ. Chị còn tương đối trẻ, mặc quần áo bà ba đen, thân hình gọn gàng. Đôi mắt nhỏ, nghiêm nghị của chị đang nhìn ra xa. Cả bộ mặt trái xoan có những đường nét nhẹ nhõm như đang căng lên để chống lại với nắng và gió biển. Trời lúc đó rất nhiều gió. Tôi nhận ra gió đang thổi rất mạnh trên những nếp áo của chị, trên cái váy ngắn xinh xinh của đứa con gái, trên những tàu lá dừa và những cánh buồm. Hai đứa trẻ cũng có bộ mặt giống như mẹ. Cả ba mẹ con không ai cười. Chắc là chị và các con đã chụp bức ảnh này trong một ngày hè đi nghỉ mát từ mấy năm trước khi máy bay Mỹ chưa đánh phá bờ biển vịnh Hạ Long.

Hải chỉ liếc qua bức ảnh, rồi nhìn đi chỗ khác. Mặt anh lúc này càng xanh, những thớ thịt rung rung. Nhìn anh, tôi càng hiểu rõ hơn những xúc cảm anh đã ghi lại trong bài thơ ở cuốn nhật ký. Tôi chuyển bức ảnh cho Xương xem và chưa biết nên nói gì với Hải. Hải bỗng nói:

– Anh à, chỉ từ ngày xa nhau chúng tôi mới hiểu hết chúng tôi thương nhau ra răng. Trong thư mô nhà tôi cũng nhắc tới điều nớ: Thiệt ra điều nớ không nói thành lời được mô! Vì rứa mà anh coi tôi làm thơ. Nhưng tôi đã biết làm thơ càng khó nói hơn.

Hải hỏi chúng tôi:

– Các anh ăn tết ở mô chưa?

– Chưa. Xuất hành không đúng giờ “ăn uống”, đi đến đâu cũng lỡ cả.

Ngày tết của các đơn vị giải phóng không đến cùng một lúc. Từng đơn vị tùy theo hoàn cảnh công tác mà định lấy ngày tết của mình. Đôi mắt của đồng chí bác sĩ trở nên xa xăm. Có thể là anh đang nghĩ đến một ngày đầu năm của những người thân ở ngoài đó. Thủ đô đang chiến đấu tết năm nay có trồng những cây đào và những luống cúc vạn thọ, thược dược ở vườn hoa Chí Linh, ở trên đường Thanh Niên? Đêm giao thừa, Tháp Rùa, cầu Thê Húc và những cây liễu quanh hồ Hoàn Kiếm có sáng rực lên như nạm ngọc…? Tôi cũng nghĩ tới những con người trong bức ảnh của Hải vừa cho xem. Những con người biết yêu thương và biết chờ đợi. Những bộ mặt thân thuộc mới đáng tin cậy và kiêu hãnh làm sao!

————————————————————————————-
1. Anh hùng Quân giải phóng miền Nam

3.

Ở chặng nghỉ sau, Nguyễn lại yêu cầu mọi người giúp cho bác làm xong bức ký họa. Như lời bác nói, nó đã mang một cái “tựa mới”: “Đầu xuân, đọc thư nhà”. Ngoài Hải ra, tất cả bọn chúng tôi đều cũng trở thành những nhân vật trong tranh.

Nguyễn sắp xếp chúng tôi ngồi ở một gốc cây theo những dáng cũ mà anh đã ghi. Nghỉ ngơi như thế này cũng hơi gò bó. Nhưng được ngồi thế này để làm mẫu còn là may. ở những chặng nghỉ khác, chúng tôi đã từng thấy bác yêu cầu những chiến sĩ để nguyên ba-lô, súng đạn và bao gạo trên vai, đứng cho bác vẽ cảnh hành quân. Quốc hỏi đùa bác:

– Nhưng mà ở đây lại không có suối?

– Suối à… Không quan trọng. Đọc thư nhà trên đèo cao đẹp lắm chớ! Mây này cho vô tranh rất đẹp. Đến trạm nghỉ tôi sẽ cho màu vô luôn..

Hai chiến sĩ giải phóng cùng lên đèo với chúng tôi đã đứng sau lưng bác. Họ hết nhìn những nét chì trên bức tranh rồi lại nhìn chúng tôi như để so sánh xem họa sĩ vẽ có đúng mẫu hay không?

Những đám mây lạnh giá bay ngang chỗ chúng tôi ngồi. Chúng tôi bắt đầu cảm thấy rét. Xương hỏi:

– Hút thuốc lá được không họa sĩ?

– Đúng đó! không có thuốc lá thì mẫu chết rét hết “cụ” ạ… – Quốc nhấn thêm.

Bác Nguyễn vẫn dồn hết tinh lực vào bức tranh, đáp nhát gừng:

– Hút thuốc à…? Được… Được lắm chớ… Càng tự nhiên.

Đưa dứt nét bút, bác như tỉnh ra, bắt đầu nói đùa:

– Thêm thuốc vô để cho người xem tranh biết ở chiến trường Trị – Thiên, thuốc lá rất dồi dào… ủa, anh Hải chớ có ngồi xoay lại!

Giọng nói của bác đột nhiên trở nên hốt hoảng, khiến cho mọi người đều phì cười. Quốc rút cái túi ni-lông ra, chia cho mỗi người một dúm thuốc nhỏ. Chúng tôi phải hút dè sẻn theo kế hoạch, cho đủ từ đây tới tỉnh đội Quảng Trị, nơi chúng tôi hy vọng sẽ được tiếp tế thêm. Những người chiến sĩ đứng sau lưng bác Nguyễn bắt đầu đụng đậy. Họ không xem vẽ nữa, quay lại nhìn nhau. Một cậu vung tay một cái, rồi đi lại chỗ Quốc. Cậu kia kẹp một bàn tay vào nách, một bàn tay đỡ dưới cằm đứng với dáng hơi co ra, lại xem bác Nguyễn vẽ.

Anh chiến sĩ nói với Quốc bằng một giọng rắn rỏi:

– Báo cáo đồng chí, bọn tui vừa dự kiến được ba tình huống rất chính xác…

– Ồ… cái chi vậy? – Mắt Quốc mở tròn, chiếc răng vàng trong miệng anh lấp lánh.

– Bọn tui đã dự kiến rất đúng ba tình huống ni: Thứ nhất là, các đồng chí đi ra thì nhứt định phải qua đèo; thứ hai là, lên đỉnh đèo, nhứt định các đồng chí sẽ phải nghỉ; thứ ba là, đã nghỉ, nhứt định là các đồng chí phải hút thuốc…

Quốc có vẻ đã biết chuyện từ đầu, đôi mắt anh vẫn tròn xoe:

– Các cậu quên dự kiến một tình huống thứ tư rất quan trọng…

– Dạ…

– … là bọn mình chỉ còn đủ ba điếu… Đó, cậu nhìn xem đồng chí này có thuốc hút đâu nào.

Quốc hất cằm về phía Hải. Người chiến sĩ vẫn tươi cười.

– Dạ… đồng chí đó là bác sĩ nên không hút thuốc.

Chúng tôi đều phải mỉm cười vì những câu nói của anh. Có lẽ anh đã có dịp qua bệnh viện của Hải hoặc là anh đã chú ý đến câu chuyện giữa chúng tôi từ nãy đến giờ.

Quốc đưa cho người chiến sĩ một dúm thuốc khá hậu hĩnh. Anh chiến sĩ đứng sau lưng Nguyễn đã bỏ cái tay khỏi cằm và hết hẳn dáng điệu ngoài cuộc vờ vịt. Họ lúi húi vấn thuốc, che gió châm lửa rất khéo. Đôi má bầu bĩnh của họ móp lại. Hai người cùng nuốt hết khói. Ngay sau hơi thuốc đầu tiên đó, họ nhanh nhẹn xốc chiếc ba-lô nặng trĩu lên vai. Người chiến sĩ đã xin thuốc lá nói với chúng tôi:

– Chào các đồng chí, bọn tui đi…

Anh quay lại phía người bạn, đứng thẳng đôi chân:

– Đàng sau, quay!

Họ cùng quay lưng, khúc khích cười, chạy xuống con đường dốc họ vừa trèo lên, trước cặp mắt ngạc nhiên của chúng tôi. Đáng lẽ ra, họ phải đi rẽ từ một đoạn nào đó dưới chân đèo, nhưng vì dúm thuốc lá vừa rồi mà họ đã quyết tâm cùng lên đây với chúng tôi. Họ lao đi vội vã như sợ chúng tôi nói với theo một câu trách họ đã phung phí sức khỏe.
 
Chúng tôi nhìn theo những người chiến sĩ với chiếc ba-lô nhảy nhảy trên lưng đến lúc họ khuất vào rừng cây ở lưng chừng đèo. Quốc nói:

– Biết anh em bỏ công sức như vậy thì ban nãy mình đã sẻ cho các cậu ấy khá hơn… Anh Hải nè, ở bệnh viện của anh có giải quyết món thuốc lá cho thương binh không nhỉ?

Hải vẫn ngồi một cách “nghiêm túc” theo đúng dáng dấp của bác Nguyễn đã quy định. Đôi mắt anh chớp chớp. Không trả lời đúng câu hỏi của Quốc, anh nói:

– Bọn Mỹ, ngụy trả lương cho mỗi tên lính ngụy hàng tháng chừng năm ngàn đồng 1. Bọn hắn vừa đi càn bắt thanh niên về, vừa bỏ tiền ra để giữ họ lại. Chiến đấu ác liệt thêm thì lương lính cũng tăng thêm. Ngoài tiền ra, chúng còn mua người bằng nhiều thứ cám dỗ, nhiều thứ quyền lợi khác. Rứa mà chúng có mua nổi mô! Dân mình quả là ghê thiệt! Anh em bỏ công sức trèo mấy núi xin các anh một điếu thuốc nhưng khi vô An Lỗ thì vàng vứt ngay đó, không ai thèm ngó ngàng mô! Chưa chừng mà tới đại hội dũng sĩ diệt Mỹ kỳ sau các anh lại gặp hai đồng chí khi hồi cho mà coi…

Một đơn vị giải phóng từ phía ngoài đi vào, đang lên đèo làm cho Hải ngừng lời. Họ không mang ba-lô; trên người chỉ có súng đạn và một cuộn tăng võng nhỏ. Có lẽ là một bộ phận đi chuẩn bị chiến trường. Một người gày gò rậm râu, nhìn Nguyễn rồi nở một nụ cười tươi và hiền hậu như nụ cười của đứa trẻ con, nói:

– Đồng chí họa sĩ họa cho tôi một bức thật đẹp để gởi cho người yêu.

– Họa sĩ có dao bào cho thủ trưởng tôi mượn đã. – Một người khác nói.

Nguyễn ngắm nghía đồng chí rậm râu, rồi nói với giọng thật thà:

– Đồng chí ấy đẹp trai lắm đó, có thời giờ đứng đây tôi vẽ ngay.

Họ cười ồ rồi đi vượt qua. Công việc chắc gấp nên họ không nghỉ lại đây.

Bỗng từ trong đoàn người đang qua đèo, một người lao tới ôm chầm lấy Hải. Hải đã nhận ra người quen, cũng lấy hai cánh tay quàng lấy lung anh.

– Em lại trở về đơn vị cũ rồi, anh Hải à. – Người chiến sĩ nói.

– Tay ra răng? Còn đau không?

– Khỏi hẳn rồi. – Người chiến sĩ chìa một bàn tay cho Hải – Em biên thư báo tin về đơn vị, anh có nhận được không?

Hải cầm lấy bàn tay đầy những vết sẹo của anh một cách âu yếm. Người chiến sĩ rụt tay lại, nói:

– Em phải đi không các anh ấy chờ!

Và một lần nữa, anh lại ôm ghì lấy Hải. Khi buông tay ra, anh chạy vụt đi luôn, như không muốn cho ai nhìn thấy mặt mình.

Cách đây ít lâu, một thương binh trẻ tuổi tới viện với bàn tay phải dập nát, những đốt xương đã bật cả ra ngoài. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc làm cho chính anh cũng khó chịu. Anh kêu đau và yêu cầu cắt bàn tay đi. Một số nhân viên của viện cũng thấy chỉ còn có cách đó vì bàn tay coi như đã hỏng hẳn. Cắt một bàn tay… Chỉ cần một thủ thuật rất gọn. Mười ngày sau, người chiến sĩ sẽ ra viện, Hải và các đồng chí khác có thể tập trung tâm trí vào những trường họp hiểm nghèo hơn. Nhung Hải không đành lòng làm theo yêu cầu của người thương binh. Hải không nghĩ tới chuyện bảo vệ bàn tay để trả anh về đội ngũ vì sức khỏe của anh rất kém. Hải nghĩ tới một điều khác: Những ngón tay kia là phần thịt xương gắn liền với cơ thể con người; nó đã lớn lên cùng đồng chí đó, đã qua bao ngày sướng khổ, ngọt bùi; nó chứa đựng biết bao nhiêu kỷ niệm của một con người… Lẽ nào mình dễ dàng cắt bỏ nó đi! Hải xem xét kỹ lưỡng bàn tay của người chiến sĩ. Mặc dầu ít hy vọng, anh cũng quyết định tìm cách giữ nó lại. Thiếu nước “đa-canh”, anh dùng nước muối. Anh nhỏ thuốc tím liên tục vào bàn tay nhiều ngày đêm rồi bó bột. Hải và anh chị em phục vụ vất vả với nó hai tháng ròng. Kết quả, khi ra viện, người chiến sĩ vẫn giữ được bàn tay nguyên vẹn. Anh không cảm ơn Hải, nhưng nhìn Hải với cặp mắt rơm rớm nước mắt. Hải không tin rằng sẽ gặp lại người chiến sĩ nữa…

Cuộc gặp gỡ bất ngờ làm cho Hải ngồi lặng đi một hồi lâu.

Đến khi khoác ba-lô lên vai tiếp tục đi, Hải mới nói với tôi:

– Bữa tôi nhận được lá thư là một ngày trời rất đẹp anh ạ. Nếu trời chưa tốt và chưa có lá thư thì tôi còn nằm lại bệnh xá của phân khu thêm ít ngày vì các đồng chí bác sĩ không cho tôi về. Trời tốt là anh em mình sẽ lên đường nhiều… Mình phải trở về vị trí chiến đấu thôi. Biết các đồng chí chuyên môn không bằng lòng, tôi cũng cứ nhứt định xin về, nằm lại thì đầu óc không răng mà chịu nổi. Tôi đã nghĩ là mình sai… Nhưng bây chừ tôi lại nghĩ làm như rứa là đúng, phải không các anh?

———————————————————————————–
1. Tiền của ngụy quyền miền Nam

4.

Trên đỉnh núi phía trước, một chiếc máy bay lên thẳng hiện lên giữa những gié ánh sáng trời như con mối đang vãy cánh trong mưa. Nó tha lặc lè dưới bụng một cái lô-cốt bê-tông, quay tít chiếc chong chóng trên lưng, phành phạch bay về phía đường số 9. Các chiến sĩ nghiêng ngó, lấy tay che ánh nắng, nhìn qua khoảng trống giữa các lùm cây, con ngựa thồ bằng sắt biết bay của kẻ địch.

Chỉ mười năm qua mà bọn đi cướp nước đã thay đổi đã làm thêm đến lắm thứ “đồ nghề”. Chúng đã vứt những chiếc cánh quạt trên máy bay, thu nhỏ đôi cánh kềnh càng lại xếp lui về phía sau, dùng hơi đẩy làm cho máy bay đi ăn cướp bay nhanh gấp sáu, bảy lần. Xe bọc sắt nặng nề ngày xưa chạy trên đường đá giờ cũng biết lội bùn, bơi sông. Pháo thuyền chỉ chạy được trên mặt nước giờ cũng biết cất mình bay lên… Bọn chúng đã cải tiến các công cụ đi ăn cướp thật là nhanh chóng. Nhưng, điều đáng buồn cho chúng, cùng trong thời gian đó, đầu óc của những người giữ nước lại mở mang nhanh chóng hơn thế rất nhiều. Chẳng có sáng chế mới mẻ nào làm cho họ e sợ được.

Các chiến sĩ vừa đi vừa nhìn con vật bằng sắt đang ì ạch tha mồi phía trước mặt như xem một trò chơi giải trí tình cờ họ gặp trên dọc đường.

Từ một cánh rừng có những tàu lá kè xòe tán rộng chói lòa ánh nắng mặt trời, vang ra tiếng nói của những cô gái, những tiếng nói lảnh lót, ríu rít như tiếng chim hót. Một cô gái nào đó đứng lấp ló sau búi cây lá nón, hỏi vọng ra:

– Anh ơi, anh có nhớ em không nào?

Tiếp theo là tiếng cười trong như dòng suối chảy. Không biết dân công ở miền nào đây? Các cô gái vui vì những trận mưa dầm dề đã dứt, đường ra mặt trận lại khô sạch, hay vì một mùa xuân mới đầy hứa hẹn đã bắt đầu.

Một chiến sĩ trẻ mặc bộ quân phục vải chưa co hết, rộng thùng thình, ống quần đã vén gấu vẫn chạm mắt cá, chắc là một lính mới, liếc mắt nhìn vội vào khu rừng như sợ bị những người đã ở đây từ lâu trêu chọc trên quãng đường anh mới đặt chân lần đầu. Những trang bị nặng nề trên vai, trên lưng các chiến sĩ bỗng như nhẹ đi. Bước chân của đoàn quân bỗng nhiên mạnh mẽ, hùng dũng hẳn lên. Một chiến sĩ hai má đầy lông măng mịn màng bỗng đỏ hồng lên; anh dán đôi mắt vào gáy người đi trước, đi như lúc diễu binh. Sau anh, một người thấp lùn, to ngang, vành mũ giải phóng cuốn vào trong chỉ để một chiếc lưỡi trai ở phía trước như kiểu mũ của người cưỡi ngựa đua, kẹp khẩu tiểu liên ở nách, đưa mắt nhìn soi mói vào các búi cây như để tìm kiếm người quen. Có cái gì giống như một thứ men vừa kích thích đoàn quân, làm cho mọi người vui hẳn lên.

Ở đây, niềm vui đến với mọi người khá dễ dàng. Một lá thư nhà, nhiều quá; một điếu thuốc, một câu nói cũng đủ đem lại niềm vui. Những ai ở góc trời tối tăm, tẻ lạnh nào trên trái đất, nếu sợ cái buồn, hãy tới với chúng tôi. Ở đây không có cái trạng thái của tâm hồn vẫn được gọi là: hiu quạnh. Cuộc sống rất mãnh liệt nên đã đem lại những tình cảm mãnh liệt. Có đau thương, có căm thù đó, rất nhiều nữa kia, nhưng không có cái buồn. Bao trùm lên tất cả vẫn là yêu thương, là niềm vui. Ngày vui nối tiếp ngày vui. Cách mạng đúng là ngày hội của những người bị áp bức!

Có thể nào con người lại không cảm thấy một niềm hạnh phúc lớn lao khi thấy ở trong mình những khả năng tiềm tàng vô tận, khi tự tay mình đang tự quyết định lấy vận mệnh của mình, khi cùng với những bước đi của mình, guồng bánh xe lịch sử đang lăn nhanh về phía trước?

Mỗi mùa xuân đến, mọi người lại thấy rõ thêm, thời gian quý giá biết chừng nào. Cũng ngày này năm trước thôi, đoàn quân xuống đồng bằng còn có cái gì ngỡ ngàng, mọi việc còn phải chờ xem sẽ ra sao. Mùa xuân năm nay, họ ra đi đã biết tất cả những gì đang đón đợi mình phía trước. Kẻ thù nhất định thua vì chúng ta đang lớn lên như thổi trong khi bọn chúng đã làm tất cả những gì chúng có thể làm.

Cho tới hôm nay, chúng tôi đã gặp những con người rất khác! Họ đã sống một cuộc sống thật khác thường. Và cũng chỉ có sống như vậy, con người mới có chỗ đứng trên mảnh đất này. Mới đầu, dường như không đừng được nữa mà phải bắt tay vào việc thôi. Bây giờ thì công việc lớn đang làm lớn những con người.

Trên dải đất chật hẹp, đầy núi, đầy sông, đầy những cồn cát trắng nằm ở ven biển Đông này, những sự đổi thay lớn lao dường như đến đột ngột. Có cái gì giống như mùa đông với tấm áo choàng xám ngắt phủ kín bầu trời, đang vung lưỡi búa khắc nghiệt bổ mòn cây cối, chỉ sau một đêm mưa nhẹ hạt, nắng mới bỗng chan hòa khắp nơi, và mùa xuân bắt đầu. Cũng giống như mùa xuân nối tiếp sau mùa đông, mọi sự việc ở đây đều diễn ra đúng như quy luật.

Trong những ngày hội lớn của những người đi chiến đấu giải phóng đất nước, trời đã sang xuân.

Trị – Thiên, mùa xuân Đinh Mùi
HẾT
call Hotline 1 0906223114 call Hotline 2 0906 223 114 facebook Fanpage Chat FB zalo Chat Zalo youtube Youtube Tiktok Tiktok